Chính tôi được nghe: Một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ, tại đạo tràng Thiện Thắng. Cũng do lòng bi thiết cứu thế, hoằng pháp độ sinh, đã mất bao công gian khổ tu tập. Khi mới thành Phật, thấy vấn đề trên đối với tất cả chúng sinh khó, nên Ngài tự nghĩ rằng: "Tất cả chúng sinh mê tối thâm độc qúa, lòng dạ đảo điên, kiến thức hẹp hòi, chỉ mê theo những lối tà đạo, rất khó giáo hóa, ta có ở đời cũng vô ích, chi bằng ta vào cõi Vô Dư Niết Bàn là hơn".
Khi đó ông vua cõi trời Phạm Thiên biết Ngài tự nghĩ như vậy, liền từ trên trời bay xuống tận nơi, tới trước làm lễ, rồi qùy gối chắp tay cung kính thưa với Ngài rằng:
- Kính lạy Đức Thế Tôn ! Vừa đây con được biết ý niệm của Ngài, vì thấy chúng sinh điên đảo khó giáo hóa, nên Ngài muốn vào Niết Bàn, vậy con tới đây xin cầu thỉnh Ngài ở lại truyền Pháp cho đời, khiến ánh sáng chân lý lan tràn khắp cõi nhân gian thiên thượng muôn loài được thấm nhuần đức hóa, thoát qua khỏi luân hồi sinh tử trong sáu thú, đời đời được an vui tự tại nơi Phật Quốc. Kính xin Ngài hoan hỷ nhận lời thành kính cầu thỉnh của con.
Phật dạy: - Ông có lòng vì tất cả chúng sinh vậy cũng tốt, song tôi nhận thấy chúng sinh bị trần cấu che tối, say mê, tài sắc, danh vọng, ăn ngon, ngủ kỹ, tham dục, sân si, lòng dạ đen tối không có chút trí tuệ gì, vì thế tôi có ở đời cũng chỉ luống công thôi! Nên tôi muốn vào Niết Bàn là một sự an vui hơn.
Ông lại thưa rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Xin Ngài nhủ lòng thương đến con và tất cả chúng sinh trong cõi trời,cõi người, đương bị màn vô minh che tối, tìm ra không biết lối, ngày nay biển Pháp đã đầy, cờ Pháp đã dựng, thời đã tới, những chúng sinh có thể độ được, conxem số đó cũng khá đông nhiều. Vậy kính mong Ngài thi ân tế độ hoằng pháp lợi sinh.
Kính lạy Ngài! Con nhớ cách đây vôsố kiếp, cũng vì lũ chúng con nên Ngài từng góp nhặt, một bài kệ, cho đến mộtcâu đạo, đến nỗi quên mạng sống, bỏ cả vợ con yêu dấu, hy sinh vì Phật pháp,một cách rùng mình sởn gáy, tất cả không ai làm nổi, được những hạnh của Ngàiđã thực hiện, giờ đây Ngài đã thành tựu trên công cuộc tầm đạo giải thoát,chúng sinh như những áng cỏ trên mặt đất bao la bị sương mù phủ đậy đã lâu nămđương ngóc ngó ánh thái dương phản chiếu, để biến thành những bông hoa tươiđẹp. Kính lạy Ngài, xin chớ bỏ lũ chúng con để vào Niết Bàn.
Con lại nhớ kiếp qúa khứ cách đây đãkhá lâu xa có một ông vua tên là Tu Lâu Bà ở Châu Diêm Phù Đề, cai trị tám mươibốn ngàn nước nhỏ, sáu muôn núi sông, tám mươi ức Tụ Lạc, hai vạn bà Phu nhânvà một vạn quan Đại thần.
Đối với thời ấy, phúc đức và thế lựccủa vua Tu Lâu Bà không ai bì kịp, nhân dân thuở đó đức vua, được an lạc tháibình, mưa hòa gió thuận, vui sướng vô cùng vô tận!
Một hôm vua tự nghĩ rằng: -"Đối với vật chất ta đã giúp dân được đầy đủ, nhưng về tinh thần giải thoát cho con người chưa có. Nếu con người chỉ sống theo vật chất, sống theo tình dục, tâm như gỗ đá, tâm như cát sỏi tha hồ cho bốn tướng sinh, già, bệnh,chết lôi quanh, thì không khác chi thú vật, ăn no nằm mát, phơi mình trên đám phân tro, cho qua ngày đoạn tháng. Nhưng lẽ đó là lỗi ở ta, ta có trách nhiệm tìm đường giải thoát cho họ".
Nghĩ thế rồi Ngài ra yết thị và báocho thiên hạ biết rằng: "Nếu ai biết đạo giải thoát của Phật dạy nói chota hay, muốn dùng gì ta sẽ cung cấp cho đầy đủ".
Tuyên lệnh đã lâu, nhưng không thấyai đến nói, nhà vua luôn luôn mong mỏi, và tâm ý lúc nào cũng không được vui!
Sau đó ông Tỳ Sa Môn, là một ông vua cõi trời Tứ Thiên Vương thấy vậy bèn đến thử Ngài như sau.
Ông biến hình làm một con qủi DạXoa, mặt xanh lè, mắt đỏ như huyết, răng to như quả chuối măn, mọc chìa rangoài, tóc dựng ngược, mồm phun lửa đến cung vua giựt lấy bảng rồi nói: - Cácông vào báo cho nhà vua biết, tôi có Phật Pháp, nhà vua muốn nghe, tôi sẽ giảngcho.
Quan Môn Giám nhận lời, vào tâu vuarằng:
- Tâu bệ hạ ngoài thành có một ngườihình thể khá sợ, tự nói có Phật Pháp, và xin nói cho bệ hạ nghe, việc đó thếnào xin cho hạ thần được rõ ?
Nhà vua nghe nói, vui vẻ đội mũ mặcáo chỉnh tề, tự ra đón tiếp mời vào chánh điệ⮠và nhường ngồi trên ngai vàng,thiết đãi một cách rất trọng hậu.
Sớm ngày mai nhà vua bày một tòa caođẹp, trà nước xong xuôi, đánh trống ca nhạc rước Pháp sư thăng tòa thuyết pháp,Pháp sư lên tòa ngồi yên tĩnh. Lúc đó có đông đủ quan quân, dân chúng, nhà vuara lễ bái Pháp sư, rồi quỳ xuống xin Pháp sư thuyết pháp.
Pháp sư nói:
- Học pháp rất khó, ông muôn đượcnghe không phải dễ.
Nhà vua thưa rằng: - Kính thưa Phápsư! Thương đến chúng tôi là kẻ ngu si, việc nghe Pháp phải đúng lễ thế nào, xincho chúng tôi được rõ.
Pháp sư nói: - Nếu nhà vua đem vợyêu con quí cho ta ăn, thì ta sẽ nói cho nghe.
Nghe xong nhà vua vui vẻ thọ giáo,bái tạ lui ra trở về cung gọi vợ con nói:
- Tôi xin nói để các người hay: vợchồng cha con, yêu nhau trong vòng sinh tử, ân ái có ngày biệt ly, tôi muốn tìmcon đường giải thoát, cho tôi và lũ ngươi, vì thế tôi muốn đem thân mạng của lũngươi dâng Pháp sư để cầu thành Phật; ý thế nào cho tôi được rõ ?
Nghe xong hoàng hậu và thái tử liềnquỳ xuống, xin tuân lời chỉ giáo.
Được sự đồng ý rồi nhà vua liền đemvợ con dâng Pháp Sư. Pháp sư nhận rồi, ngồi trên tòa cao, giữa đám hội đôngngười nghiểm nhiên ngồi ăn, nháy mắt đã ăn hết, mọi người thấy thế đều lắc đầu,lè lưỡi, kinh sợ hãi hùng.
Khi đó quần thần, dân chúng, thấynhà vua hành động như vậy, ai nấy đều không bằng lòng, và cho nhà vua qúa ư mêchấp. Song họ có biết đâu nhà vua làm những việc mà người đời không ai làmđược. Họ như con ếch nằm trong đáy giếng, chưa bao giờ nhìn thấy biển Đông. Sựnhìn xa trông rộng không phải kẻ phàm ngu có thể so sánh.
Tiếp đến Pháp Sư đọc bài thơ nhưsau:
Nhất thiếthành vô thường.
Sinh giảgiai thị khổ !
Ngũ ấmkhông vô tướng.
Vô hữungã, ngã sở.
Nghĩa là :
Hếtthảy đều vô thường,
Sinhra tất phải khổ !
Nămấm không có tướng.
Tavà của đều không.
Nhà vua nghe xong vui vẻ khôn xiết !Sai người chép lấy, để ban phát cho mọi người trong nước, bắt ai cũng phải tụngđọc.
Bấy giờ Pháp Sư (quỉ Dạ Xoa) thấyvua có vẻ bình thản như vậy, liền hiện lại nguyên hình, nói rằng : "Quíhóa nhà vua ! Biết tôn trọng Chánh Pháp như vậy không bao lâu Ngài sẽ đượcthành Phât". Nói xong, bỗng nhiên lại thấy phu nhân và thái tử hãy còntoàn vẹn.
Kính thưa Ngài ! Vua Tu Lâu Bà thuởđó chính là ngài đẫy. Xưa kia Ngài đã hy sinh vì Pháp như vậy, sao nay Ngài nỡbỏ chúng sinh để vào Niết Bàn ?
Kính lạy Ngài ! Lại một kiếp nữa,thuộc thời quá khứ, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một ông vua tên là Kiền Sá NiYết Lê, thống trị nhiều nước, tám vạn bốn ngàn Tụ Lạc, hai muôn Phu Nhân và thểnữ, một vạn quan Đại Thần. Nhà vua nhân hiền, yêu thương tất cả, nhân dân sungsướng, cây cỏ xanh tươi. Dân coi vua như một người cha lành.
Nhà Vua tự nghĩ như vầy : "Tađược địa vị cao sang, tôn trọng quý giá ! Là do trước kia ta đã tạo nhân lành.Hiện nay nhân dân được an vui sung sướng ! Tuy thế, chỉ an vui về vật chất,song vật chất có ngày hoại diệt, không phải một sự an vui lâu dài vĩnh viễn,muốn cho chính mình và tất cả chúng sanh, được an vui vĩnh viễn, ta phải tìmđạo giải thoát do Phật dạy mới có kết quả".
Nghĩ thế rồi vua sai các quan viếtbảng cáo thị, và truyền lệnh cho khắp trong nước biết : "Nếu ai có DiệuPháp, nói cho ta nghe, ý muốn gì ta sẽ cung cấp cho đầy đủ".
Sau có người Bà La Môn tên là Lao ĐộSai, đi tới nói rằng: - Tôi có Diệu Pháp, các ông vào báo cho vua biết.
Quan Môn Giám liền đem tin ấy vàotâu vua. Nhà vua nghe nói, ý rất vui mừng, mũ áo trang nghiêm, tự ra lễ bái,hỏi han ân cần trịnh trọng rồi mời vào trong chánh điện, bày giải một tòa caođẹp, mời Pháp sư lên tòa ngồi yên tĩnh. Vua và hai bên tả hữu chắp tay thưarằng:
- Kính thưa Đại sư, được hạnh phúccho chúng tôi nhiều lắm! Hôm nay Đại sư có lòng thương đến chúng tôi mà tớiđây. Vậy kính xin thể lòng từ bi cao cả, thuyết Diệu Pháp cho chúng tôi đượcthừa thụ.
Lao Độ Sai đáp: - Ta có trí tuệ cũngphải mất bao công khó nhọc, tìm mãi ở phương xa, dầy công học tập, không phảilà một việc dể dàng quá như vậy.
Nhà vua thưa: - Kính thưa Đại sư, ýĐại sư thế nào xin dạy bảo cho chúng tôi được rõ ?
Lao Độ Sai nói: - Nhà vua muốn đượcnghe Pháp, thì phải khoét trên mình ra một ngàn lỗ, đổ dầu cho bấc, đốt lửacúng dàng ta, thì ta sẽ thuyết cho nghe.
Nghe nói, nhà vua vui vẻ nhận lờixin khoét, và khất lại bảy ngày để báo cáo cho dân chúng biết, lời báo cáo nhưsau:
"Tất cả quốc dân nên biết: VuaKiền Sà Ni Yết Lê sau bảy ngày nữa vì sự cầu đạo, sẽ khoét trên mình ra ngànlỗ, đốt đèn cúng dàng Pháp Sư, ai muốn nghe, và xem sự hy sinh cúng dàng củanhà vua thì đến".
Bấy giờ các ông vua nước nhỏ và nhândân các nước, hay tin ai cũng buồn rầu, cùng nhau đến yết kiến và tâu rằng:
- Kính thưa Đại Vương ! Tất cả muôndân nhờ phúc đức của Đại Vương được an lạc thái bình, như kẻ mù được nhờ câygậy, con dại ngóng mẹ hiền, nếu Đại Vương khoét mình đốt đèn, tất nhiên tuyệtmạng, thì muôn dân trông cậy vào ai ? Xin không nên vì một người mà nỡ bỏ chúngsinh trong thiên hạ.
Sau đó hai muôn bà phu nhân, và nămtrăm thái tử, một vạn Quan Đại Thần, tất cả đều can vua việc đó.
Nhà vua liền lớn tiếng nói:
- Các ông không nên cản trở tôi, tôihy sinh thân này để nghe một câu đạo, sau này tôi thành Phật, tôi sẽ độ cho lũcác ông trước.
Họ thấy nhà vua khẳng khái như vậy,ai nấy đều tha thiết kêu van! Nhưng vua cũng quyết định không thay đổi ý kiến.
Hết hạn bảy ngày nhà vua tới trướcPháp sư làm lễ và thưa rằng:
- Kính thưa Đại sư, chúng tôi xindốc lòng thành kính, theo lời chỉ giáo của Đại sư! Để bắt đầu khoét mình đốtđèn cúng dàng, xin Đại sư hoan hỷ !
Nói xong nhà vua sai khoét, nhưngkhông ai dám khoét. Sau đó có người Chiên Đà La đến khoét hộ cho vua, anh nàykhoét xong, vất dao xuống đất chạy mất, khi đổ dầu bỏ bấc xong mọi người coithấy ai cũng rùng mình run sợ !
Nhà vua thưa rằng:
- Kính xin Đại sư thuyết pháp trước,sau sẽ đốt lửa, sợ mạng tôi tuyệt thì không nghe pháp.
Lao Độ Sai đọc bài thơ rằng:
Thường giảgiai tận.
Cao giảtất trụy ?
Hợp hộihữu ly
Sinh giảhữu tử.
Nghĩa là :
Thườngrồi có hết,
Caothì phải rơi,
Hợprồi có tan,
Sinhthì có tử.
Đọc xong vua sai đốt lửa, trong khilửa cháy dữ dội, vẻ mặt nhà vua vẫn nghiễm nhiên tươi tỉnh, không hề biến sắc.Ngài tự phát thệ rằng:
- Tôi chịu đau khổ để cầu nghe đạogiải thoát, nguyện đem công đức này hướng về Phật qủa, sau khi được thành, tôisẽ lấy trí tuệ quang minh, phá ngu si hắc ám cho tất cả chúng sinh.
Nói dứt lời, thì trời đất tự nhiênchuyển động, tới cõi trời Tịnh Cư. Khi đó các người cõ Trời ngó xuống xem, thấymột vị Bồ Tát đốt mình làm đèn cúng dường Pháp Sư để nghe pháp, một cách rùngrợn ! Họ bay xuống đứng kín cả hư không, ví sự cảm động quá ! Nên nhiều ngườisa nước mắt roi xuống thành mưa, đồng thời họ lại tung hoa xuống để cúng dàng.Vua Đế Thích đến tận nơi, tới trước khen và hỏi rằng:
- Nhà vua đau khổ như vậy thì có hốihận gì không?
Nhà vua đáp: - Thưa không!
Đế Thích nói: - Tôi thấy nhà vua runrẩy không yên như vầy, tự nói không hối, lấy gì chúng cớ biết rõ được?
Đế Thích nói dứt lời, thì Ngài tựthề rằng:
- Nếu tâm tôi thủy chung như một,không hối hận gì, thì xin lỗ trên mình tôi, lại được bình phục như cũ.
Vì lòng chân thực cầu đạo pháp thathiết, cảm động mười phương, nên những lỗ trên mình tự nhiên lại được bình phụcnhư cũ, thân thể lại tốt lành hơn xưa.
Kính lạy Ngài! Ông vua khoét mìnhđốt đèn để cầu đạo thuở đó, chính là Ngài đấy. Ngài đã cực khổ cầu Pháp nhưvậy, tới nay đã đầy đủ, tại sao không thuyết Pháp? Vào Niết Bàn làm chi, đểchúng sanh mất con mắt quang minh trí tuệ ?
Kính lạy ngài ! Lại một đời quá khứnữa, cũng Châu Diêm Phù Đề này có một ông vua, tên là Tỳ Lăng Yết Lê thống trịđược nhiều nước, tám vạn bốn ngàn Tụ Lạc, hai muôn bà Phu Nhân và thể nữ, nămtrăm Thái Tử, một vạn quan Đại Thần. Nhà vua có đức nhân, coi dân như con đẻ,lại ham nghe chánh pháp, nên sai quan Đại Thần tuyên lệnh cho toàn quốc biếtnhư sau:
- Thông cáo cho toàn quốc biết:Hoàng Thượng muốn được nghe Phật Pháp, ai biết đến nói cho ngài nghe, Ngài sẽtrọng thưởng tùy ý muốn.
Cách thời gian lâu, có một ngườidòng Bà La Môn, tên là Lao Độ Sai tới cung môn nói: - Tôi là người đã từngnghiên cứu và tu tập giáo lý của Phật đã lâu, xin ông hãy vào tâu Hoàng Thượngcho.
Theo lời yêu cầu của Lao Độ Sai,quan Môn Giám vào tâu vua.
Nhà vua được tin rất vui vẻ, đội mũmặc áo trang nghiêm, thân ra cổng thành, trịnh trọng chào hỏi, rồi mời vàotrong chánh điện, thiết đãi trọng hậu. Sớm ngày mai vua sai bày một tòa caođẹp, thỉnh Pháp sư thăng tòa ngồi yên tĩnh.
Nhà vua và bá quan, nghiêm chỉnhthân tâm, tới trước Pháp Sư cúi đầu lễ lạy, rồi qùy xuống thưa rằng: - Kínhthưa Đại Sư phát tâm từ bi, thuyết pháp cho chúng tôi được thừa ân công đức!
Lao Độ Sai đáp: - Sự hiểu biết củata đây, là do ta chịu khổ đã lâu năm, đi tìm học ở bốn phương xa mới được; nhàvua coi sự học một cách dễ dàng quá !
Nhà vua toát mồ hôi, một lòng kínhcẩn thưa rằng :
- Kính thưa Đại sư ! Việc nghe đạophải đúng quy tắc thế nào ? Chúng tôi là
kẻ trần tục phàm phu, không biết sựlễ Pháp bao giờ, xin Đại sư chỉ dạy cho?
Đáp : - Nhà vua có thể đóng lên mìnhmột ngàn cái đinh sắt, được như vậy ta sẽ
thuyết pháp cho nghe.
Nhà vua thưa : - Dạ ! Xin tuân lờidạy bảo của Đại sư, và xin ngài cho lui lại
bảy ngày, để báo cáo cho dân biết.
Nói xong lễ tạ lui ra, lời báo cáonhư sau :
- Tất cả toàn quốc nên biết, tôi làNhân Chúa Tỳ Lăng Yết Lê, vì muốn được
đạo giải thoát cho chính tôi, vàtoàn thể, nên tôi đóng đinh trên mình một ngàn cái, cúng dàng Pháp sư, quốc dânai muốn biết sự thực hành của tôi, sau bảy ngày nữa xin mời đến.
Dân chúng được tin nhà vua đóng đinhtrên mình, để cầu nghe giảng đạo. Họ nô nức kéo nhau đến kinh thành rất đông,sau đó một số đại biểu của dân chúng lên tâu vua rằng :
- Kính tâu Hoàng Thượng ! Lũ chúngtôi thay mặt cho toàn thể quốc dân, đến
đây kính mừng Thánh thượng, thọ lạcthiên thu, hưởng phúc lâu dài chúng tôi tự biết, nhờ ơn đức Hoàng Thượng nênđược thái bình an lạc, cúi xin thương đến toàn thể quốc dân, miễn bỏ sự đóngđinh trên mình.
Sau đó, tiếp đến Phu nhân, thể nữ,thái tử, quan đại thần cũng đồng thanh tâu
vua xin miễn bỏ việc đó.
Nhà vua đáp : - Tôi nhận thấy đã baokiếp tới nay, bị sống thác trong vòng sinh tử luân hồi, thân mạng đã mất đi vôsố; những thân mạng ấy cũng chỉ đeo những tấm lòng tham dục, giận tức, ngu si,nhìn lại số xương thịt trong những kiếp sinh tử ấy, có thể chất cao hơn núi TuDi, đầu rơi máu chảy ra nhiều hơn nước sông lớn; nước mắt khóc người thân nhiềuhơn nước bốn bể; những thân mạng sống chết đó, chẳng qua cũng chỉ uổng mà thôi,chưa từng bao giờ vì đạo pháp má hiến thân. Tôi đóng đinh cúng Pháp Sư để cầuthành Phật, sau khi thành Phật, tôi sẽ lấy trí sáng suốt để trừ diệt bệnh kếtsử của lũ các người, và đưa dắt các người lên đường giác ngộ giải thoát thànhPhật, một việc ích lợi chung cho toàn thể chúng sinh, can tôi làm chi ?
Theo lời nhà vua tuyên bố, mọi ngườiai nấy đều im lặng, không dám nói năng gì hết.
Tới giờ phút này nhà vua đến trướcPháp sư thưa rằng :
- Kính xin Đại Sư ra ân, thuyết pháptrước đóng đinh, nếu đóng trước, thì tôi
sẽ chết không được nghe.
Đại Sư đọc bài thơ rằng :
Nhất thiếtgiai vô thường,
Sinh giảgiai hữu khổ !
Chư phápkhông vô chủ.
Thực phi ngã sở hữu
Nghĩa là :
Tấtcả đều vô thường
Sinhấy đều có khổ !
Cácpháp không có chủ.
Thực chẳng phải ta có.
Pháp Sư đọc xong, nhà vua vui mừng,sai người viết lấy bài thơ ban bố cho quốc dân, bắt ai cũng phải tụng đọc.
Giờ phút bắt đầu, nhà vua sai ngườiđóng đinh, thì tất cả các ông vua nước nhỏ, và quân thần, dân chúng trong đạihội, đều gieo mình xuống đất than thở. Trời đất chấn động sáu lần, các ôngthiên tử trên trời bay xuống, thấy ngài hy sinh cầu đạo như vậy, ai nấy đều cảmđộng, rơi lệ chứa chan, một lòng tôn kính tung hoa xuống cúng dàng. Vua ĐếThích xuống tận nơi hỏi rằng:
- Nhà vua quyết liệt tâm chí, cầuđạo không tiếc mạng sống như vậy, để nguyện đời mai sau làm gì ? Làm Đế Thíchư, làm Chuyển Luân Vương ư, làm Ma Vương, Phạm Vương ư ?
Đáp: - Thưa Ngài! Tôi quên mình đểcầu đạo giải thoát của Phật, để cầu làm Phật, và tế độ cho chúng sinh cũng đượcgiải thoát, chứ tôi không cầu phúc báo ở ba cõi sinh tử, như Đế Thích, ChuyểnLuân Vương, Ma Vương hoặc Phạm Vương.
Đế Thích hỏi: - Tôi coi nhà vua đauđớn như thế, thì tâm có hối hận gì không?
Đáp: - Không!
Đế Thích hỏi: - Ngài nói không thìlấy gì chứng tỏ ?
Nhà vua liền lập thệ thư sau:
- Nam mô tận hư không biến pháp giớiquá, hiện, vị lai chư Phật, tôn Pháp, Bồ Tát Hiền Thánh Tăng tác đại chứngminh, con chí thành cầu Bồ đề, nếu tâm không hối hận, thì thân thể lại đượcbình phục như củ.
Phát thệ dứt lời, thì những cái đinhbật hết ra ngoài, thân thể quả nhiên lại được bình phục như cũ.
Khi đó tất cả trời, người và quanquân, dân chúng chứng tỏ tâm của Ngài thành thật cảm ứng như vậy, ai nấy đều vỗtay vui mừng không tả xiết !
- Kính lạy Ngài! Ông vua đóng đinhtrên mình thuở đó, chính là Ngài đấy! Tâm Ngài lớn như biển cả, rộng như hưkhông, đã phá tan những tập kiến chúng sinh, chúng đương ngoai ngáp trong chốnbùn lầy, nghẹt thở nơi hang tối. Kính lạy Ngài chớ bỏ đàn con đau khổ mà vàoNiết bàn.
- Kính lạy Ngài! Lại một kiếp nữa,thuộc thời qúa khứ đã quá lâu, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một ông vua tên làPhạm Thiên, sinh được một thái tử tên là Đàm Ma La Kiềm.
Thái tử có trí tuệ khôn sáng, ưa ởnơi thanh vắng, ít sự xa hoa dục vọng, có tính tìm tòi chân lý, ham nghe chánhpháp, nên thường sai người đi khắp đông tây, kiếm thầy học đạo, đã nhiều lần,nhưng không gặp được một ai là người có chánh pháp giải thoát. Trong thời giantìm thầy chưa được, Thái tử thấy luôn luôn khổ não, làm cho không lúc ngớt ýnghĩ nói trên.
Bấy giờ vua Đế Thích biết Thái tửlòng thành như vậy, liền hóa thân làm người dòng Bà La Môn, đi đến kinh thành,tới chỗ đông người nói rằng:
- Các bạn nên biết, tôi là ngườihiểu biết Phật Pháp, nếu bạn nào muốn nghe, tôi sẽ giảng giải cho.
Họ liền đến mách bảo Thái tử, ngoàithành có người tự xưng hiểu giáo lý đạo Phật.
Thái tử được tin thấy lòng vui sướngvô cùng, vào phòng đội mũ tề chỉnh, và đem một số người theo hầu, ra tiếp đónPháp sư, lễ bái, hỏi han rồi mời vào trong cung nơi biệt thự, thết đãi trịnhtrọng.
Sớm ngày mai trà nước xong xuôi,vầng thái dương mới nhôn khỏi núi ánh bình minh vừa tỏa khắp cõi không gian,bầu trời yên lặng, thanh khí ôn hòa! Thái tử sai người bày tòa giảng thuyết,Pháp Sư lên tòa ngồi yên tĩnh. Thái tử tới trước lễ bái, quỳ gối chắp tay thưarằng:
- Kính thưa Đại Sư, chúng tôi bịnhững bức thành mờ tối vô minh dục vọng đã bao kiếp, là do không được gặp chánhpháp của Như Lai, chúng tôi thành kính trước ngài, ngửa mong từ bi giảngthuyết, để cho hết thảy được ân triêm đức hóa?
Đại sư nghiêm nét mặt đáp:
- Học đạo không phải một việc dễ, tađã biết bao công trình tìm thấy tu học, mới được hiểu biết. Người chưa chút khónhọc, nay muốn được nghe ngay, thực là coi sự học đạo dễ dàng quá.
Thái tử thưa rằng: - "Kính thưaĐại Sư ! Từ thân tôi cho đến vợ con tôi, vàng bạc châu báu, Đại Sư dạy bảo thếnào, chúng tôi xin tuân mệnh không dám trái ý".
- Đại sư đáp: "Muốn nghe pháp,Thái tử hãy đào một hố lớn, sâu chừng mười trượng, ở dưới đốt than cho thật đỏhồng, rồi Thái tử nhảy vào hố lửa ấy, cúng dàng ta, thì ta sẽ thuyết pháp.
Thái tử nói: - Dạ xin tuân lời dạycủa Đại Sư.
Sau khi Thái tử sai người đào hố thìnhà vua biết tin. Từ vua cho đến tất cả mọi người trong Hoàng cung ai ai cũnglo phiền, và khuyên can, nhưng Thái Tử quên mình vì sự cầu đạo giải thoát, nênkhông nghe theo những lời khuyên can ấy.
Sau nhà vua và các quan đều thưa vớiĐại Sư rằng:
- Kính thưa Đại Sư ! Thương đến lũtôi, để miễn bỏ việc Thái tử nhảy xuống hố lửa, ngoài ra Đại Sư muốn dùng gìchúng tôi xin dâng.
Đại Sư đáp: - Việc đó tùy ý Thái tử,ta không bó buộc, đúng thế thì ta thuyết pháp, bằng không thì thôi!
Nhà vua thấy tâm địa của Đại Sưkhẳng khái quá, nên ngài cũng vái chào rồi trở ra về, không nói năng gì nữa.
Trở về nhà vua sai người đi thôngbáo cho quốc dân biết rằng:
Lời thông báo như sau: - Tất cả quốcdân nên biết, sau bảy ngày nữa Thái tử vì sự nghe đạo, nên xả thân, nhảy xuốnghố lửa, ai muốn thấy việc đó, thì lại sớm nơi đây.
Nhân dân được tin Thái tử nhảy xuốnghố lửa, họ nô nức kéo nhau đi đến kinh thành đông như hội, sau đó một số Đạibiểu của nhân dân, tới thưa với Thái tử rằng:
- Kính thưa Thái tử : Lũ chúng tôihay tin Ngài vì sự nghe đạo nhảy xuống hố lửa, lợi ích chưa thấy đã thấy sựtang thương cho quốc dân! Vậy kính mong Ngài miễn bỏ việc đó, để cho quốc giađược an lạc.
Thái tử đáp: - Các ông lẳng lặng đểnghe tôi nói, thiệt hại hay lợi ích. Nhận thấy con người sống thác từ đời vôthủy cho tới ngày nay, không số tính, chết cõi này sinh cõi kia luân chuyển nhưbánh xe quay không mối. Trong loài người vì lòng tham dục, nên giết hại lẫnnhau; trên cõi trời khi hết tuổi thọ, thì lo về mất sự dục lạc; nơi địa ngụclửa đốt suốt ngày đêm, nào nước sôi, búa chém, dao đâm, núi dao, rừng kiếm,hành phạt con người vô cùng thảm khốc, trong một ngày chết đi sống lại biết baolần, sự hình ngục không thể giải bày cho xiết. Cái khổ trăm thứ tên độc xiêndùi vào mình loài ngạ quỉ. Cái khổ kéo cày chở nặng loài súc sinh, sau lại dângthân cho người ăn thịt, những nỗi khổ như thế, khó nói hết trong những kiếp đãchịu đoạ đày, xét lại những thân mạng ấy chỉ uống mà thôi, có làm được một việcgì về vấn đề giải thoát cho chính mình và chúng sinh trong pháp giới, ai đãbiết đem thân ấy chết về việc nghe đạo bao giờ. Ta đem dâng thân này, cúng dàngđể nghe đạo giải thoát, sau thành Phật, ta sẽ đem lại cho lũ các ông năm phậnpháp thân, can chi phải ngăn cản công việc ta đã quyết định làm.
Mọi người nghe Thái tử nói xong, ainấy đều nín thinh, không dám trả lời sao hết.
Khi sắp nhảy xuống hố lửa Thái tửnói:
- Kính thưa Đại Sư ! Xin thuyết pháptrước khi tôi nhảy xuống hố.
Đại Sư đọc bài thơ như sau:
Thườnghành ư từ tâm,
Trừ khứkhuế, hại tưởng.
Đại bi mẫnchúng sinh !
Căngthương vị vũ lệ !
Tu hànhđại hỷ tâm,
Đồng kỷ sởđắc pháp.
Cứu hộ dĩđạo ý
Nãi ưng Bồ Tát hạnh.
Nghĩa là :
Thườnglàm theo tâm từ
Trừbỏ tưởng, giận hại.
Đạibi thương chúng sinh !
Quặnlòng rơi nước mắt !
Tulàm tâm đại hỉ,
Vớimình cùng đắc pháp,
Cứugiúp bằng đạo lý,
AṠlà hạnh Bồ Tát.
Khi sắp gieo đầu xuống hố lửa thìvua Đế Thích và vua Phạm Vương chạy lại cầm tay hỏi gạn rằng:
- Thái tử hãy khoan, để tôi nóichuyện đã : Một ông vua có đức nhân, thì muôn dân được an lạc ! Chúng tôi nhậnthấy Thái tử là người đức tầy bốn biển, Phụ Hoàng yên lòng có người nối trịnuôi dân, hà tất vì một câu đạo mà bỏ tất cả chúng sinh trong thiên hạ, theo ýchúng tôi thì không nên quá ư thiên chấp như vậy.
Thái tử đáp lời rằng:
- Thưa quý Ngài! Tôi nhận thấy phầnnhiều người, chỉ biết lúc an vui, chớ không lo một ngày gặp tai nạn! Chỉ biếtcái sống hôm nay mà không sợ cái chết của ngày mai. Sở dĩ tôi làm một việc cóthể an vui mãi mãi, cho chúng tôi và tất cả chúng sinh, chứ không phải tôikhông biết thương chúng sinh! Quý Ngài không nên cản trở đạo tâm cao cả của tôilàm gì.
Nói xong Thái tử nhảy xuống hố lửa!Tự nhiên trời đất chuyển biến làm cảm động cả thiên cung. Khi đó mọi người đềusa nước mắt, cũng có người lên tiếng khóc thương! Giờ phút đương làm cho mọingười khủng hoảng, thì hố lửa ấy tự nhiên biến thành một ao sen, mùi hương thơmngào ngạt, những làn gió thổi mát, thấu đến tâm phủ của mọi người, họ nhìn vàothấy Thái tử ngồi trên đài sen, ai nấy đều vui mừng không tả xiết. Lúc đó hoatrên trời bay xuống như mưa. Vua Đế Thích, vua Phạm Thiên cũng phải cất tiếngkhen rằng:
- Quý hóa! Cầu đạo như vậy, sau nàyquyết định thành Phật.
Kính lạy Ngài! Nhà vua thuở đó naylà thân phụ Ngài (Tịnh Phạn Vương), bà Hoàng hậu thuở đó nay là thân mẫu Ngài(Ma Gia), Thái tử nhảy xuống hố lửa chính nay là Ngài, cũng vì thương chúnhsinh, cầu pháp như ngài đó, nay đã thành công, cúi xin Ngài từ bi thuyết pháp,tế độ quần sinh qua nơi biển khổ !
Kính lạy Ngài! Lại một đời quá khứnữa, tới nay vô lượng kiếp, cũng Châu Diêm Phù này có một nước tên là Ba LaNại, nước ấy có năm trăm vị Tiên sĩ tu trong núi, ông Uất Đà La làm thầy các vịTiên này, tuy ông tu theo Tiên đạo, nhưng ông hằng mong được gặp chánh pháp củaNhư Lai (Phật), ông đã từng đi khắp bốn phương trời, và thông báo cho thiên hạbiết rằng:
- Tôi Đại Tiên sĩ rất muốn được nghechánh pháp của đức Như Lai, ai biết nói cho tôi nghe, nếu muốn dùng gì tôi xindâng biếu.
Khi đó có một người dòng Bà La Môntới chỗ ông nói rằng:
- Nghe biết Tiên sĩ muốn tìm hiểuchánh pháp của Như Lai, chính tôi là người hiểu biết giáo pháp của Như Lai, nếuNgài muốn hocỏi, tôi sẽ thành thực giảng thuyết, nhưng nghe là một việc rấtkhó.
Đại Tiên thưa: - Kính thưa Đại sư việcnghe pháp phải thế nào xin Ngài dạy bảo cho?
Đáp: - Ngài có thể lột da của Ngàiđể làm giấy; chẻ xương của Ngài dùng làm bút; lấy máu của Ngài để làm mực viếtlấy giáo pháp của Như Lai, thì tôi sẽ thuyết cho Ngài nghe.
- Dạ, rất đa tạ Đại Sư, chúng tôixin tuân lời của Đại Sư dạy.
Nói dứt lời ông sai người lấy daolột da, chẻ xương, lấy máu thực sự, làm xong ông ngửa mặt thưa rằng:
- Dạ, kính xin Đại Sư đọc để chúngtôi tiện viết ạ !
Đại sư đọc bài thơ rằng:
Thườngđương nhiếp tâm hành
Nhi bấtsát, đạo, dâm;
Bất lưỡngthiệt ác, khẩu,
Vọng ngôn,cập ỷ ngữ.
Tâm bấttham chư dục;
Vô sân,khuể, độc tưởng;
Xả ly chưtà kiến.
Thị vi Bồ tát hạnh.
Nghĩa là :
Thườngphải nhiếp tâm hành.
Màkhông sát, trộm, dâm,
Khônghai lưỡi, nói ác;
Nóidối, nói đơm đặt,
Tâmkhông tham mọi dục;
Khôngsân giận, độc tưởng;
Xalìa mọi tà kiến:
AṠlà hạnh Bồ tát.
Đại Sư thuyết xong thì Ngài viếtcũng vừa xong. Từ đó Ngài dùng bài thơ này đi khắp nhân gian để dạy bảo cho mọingười biết lối tu hành. Những người được hàm ơn Ngài giáo hóa, khi mạng chungđược thoát khỏi ba đường ác sinh lên cõi Trời, cõi Người, hương phúc vô cùng vôtận.
- Kính lạy Ngài! Ông Tiên ngày đóchính là Ngài đấy, Ngài đã vì chúng sinh cầu học đạo một cách khổ cực đến nhưvậy, tại sao lại bỏ để vào Niết Bàn mà không thuyết pháp?
- Kính lạy Ngài! Lại một thời quákhứ nữa, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một ông vua tên là Thi Tỳ, ở thành Đế BàBạt Đề, dân nước lúc đó giàu thịnh vô cùng. Nhà vua thống trị tám vạn bốn ngànnước nhỏ, sáu muôn núi sông, tám ngàn ức dân ấp. Nhà vua có hai muôn bà phunhân và thể nữ, năm trăm Thái tử, một vạn quan Đại thần. Vua có hạnh từ bi,thương dân như con đỏ.
Trên Trời lúc ấy, Vua Đế Thích gặplúc năm đức ly thân, sắp tới ngày tận số (chết) khí sắc ông lúc nào cũng âusầu, ông Tỳ Thủ Yết Ma thấy thế, bèn hỏi rằng:
- Tâu Bệ hạ ! Hồi này Hạ thần coikhí sắc của Bệ hạ kém xưa nhiều lắm, chẳng hay có chuyện chi, xin nói cho Hạthần được rõ.
Đế Thích đáp: - Khanh không biết haysao? Hoa trên đầu ta đã héo, tử chứng đã xuất hiện, mạng sống chẳng còn được làbao, hiện nay ở thế gian không có giáo pháp của Như Lai, ta không biết quihướng về đâu nên ta buồn!
Ông Tỳ Thủ Yết Ma thưa rằng: - TâuBệ hạ hiện nay ở thế gian thuộc Châu Diêm Phù có một ông vua tu theo hạnh Bồtát, tên là Thi Tỳ, tâm ý bền vững và tinh tiến lắm, sau này quyết định thànhPhật, xin Bệ hạ tới đó quy y, thì lai sinh sẽ được đầy ý nguyện, đầy vẻ tônvinh trên cõi nhân, thiên, hoặc xuất thế gian".
Vua Đế Thích nói: - Nếu như qủa nhưlời của khanh nói, thì may cho ta lắm, nhưng phải thử xem hư thực thế nào. Vậykhanh hóa làm con chim Bồ Câu, ta hóa làm chim Cắt, khanh bay trước ta bay sau,khi tới nơi khanh bay vào lòng nhà vua, và yêu cầu vua cứu, còn ta đến sau tasẽ đòi trả để ăn thịt, xem nhà vua giải quyết thế nào.
Tỳ Thủ Yết Ma nói: - Tâu Bệ hạ ! Bồtát là người từ bi phúc đức, chúng ta nên cúng dàng, và ủng hộ là phải, chứkhông nên làm những sự đau khổ đến Bồ Tát.
Vua Đế Thích liền đọc bài thơ đáprằng:
Ngã diệcphi ác tâm,
Như trânbảo ưng thí.
Dí thử thíBồ tát,
Tri vi chíthành phủ ?
Nghĩa là :
Tacũng chẳng ác tâm.
Nếuthực vàng nên thử.
Đểthử Bồ tát xem,
Cóthực chí thành không?
Vua Đế Thích đọc xong, bắt đầu TỳThủ Yết Ma hóa làm chim Bồ Câu bay trước, Vua Đế Thích hóa làm chim Cắt baysau. Khi tới cung thành, chim Bồ Câu bay thẳng vào lòng nhà Vua tỏ vẻ sợ hãi,rồi kêu Vua cứu. Chim Cắt bay tới sau, đứng ở trên điện nói:
- Tâu Bệ hạ ! Xin Ngài trả lại chotôi con chim Bồ Câu ấy?
Đáp: - Trả cho ngươi để làm chi?
- Tâu Bệ hạ ! Ngài tự nói cứu tế chomuôn loài, mà cướp món ăn của tôi, thì tôi phải chết đói, đối với tôi khôngphải là một trong muôn loài hay sao!
Đáp: - Ngươi đói thì có thể dùng thứthịt khác được không?
- Tâu Bệ hạ ! Vâng! Cũng được nhưngphải cho tôi thứ thịt hãy còn tươi, máu hãy còn nóng, thì tôi dùng.
Nhà Vua thầm nghĩa: - Nếu thế thìphải giết một con vật khác; nhưng nếu giết một con, cứu một con cũng vô ích,chi bằng ta cắt thịt của ta thay thế cho nó là hơn.
Nghĩ xong lấy dao cắt một miếng thịtđùi ra trao cho chim Cắt và nói rằng:
- Đây! Ngươi dùng miếng thịt của tađể thay chết cho Bồ Câu.
Chim Cắt ra cách không hài lòng nói:
- Tâu Bệ hạ ! Ngài đã mang danh làvị Đại Thí chủ, đã dùng con mắt bình đẳng đối với tất cả, tôi đây tuy là mộtcon chim nhỏ thực, nhưng nếu theo sự công bình, thì Ngài phải bắt cân để chimmột bên thịt một bên; thịt và chim bằng nhau thì tôi sẽ nhận.
Theo lời chim nói có lý phải, nênnhà vua sai người bắt cân, để chim một bên để thịt nhà vua một bên, bắt đầu đểmột miếng hãy còn nhẹ, lại cắt thêm miếng nữa, vẫn thấy còn nhẹ, dĩ chí nhà vuacắt hết một vế đùi, nhưng vẫn nhẹ như thường, sau cắt hết hai vế đùi, cho đếnhai cánh tay, hai bạng mỡ, song vẫn còn nhẹ sau róc hết các thớ thịt ra để lêncũng vẫn còn thấy nhẹ, chim vẫn nặng hơn, nhà vua liền đứng dậy để bước lên bàncân, thì đau quá, khí lực đã hết nên Ngài ngã lăn đùng xuống đất, mê mệt khôngbiết gì, giờ lâu tỉnh lại, thầm nghĩ rằng:
- Ta từ bao kiếp đến nay, cũng chỉvì có thân này, mà làm cho ta khốn khổ, nổi chìm trong ba cõi, trôi dạt trongsáu thú, cũng do tham thân sống, tiếc thân sống, nuôi nó bảo thủ nó, gìn giữnó, yêu quí nó, vì nó mà làm hại biết bao sinh mạng khác, nhưng trái lại rồimột ngày gần đây nó lại tan không, hòa đồng với đất, nước, cây cỏ, chưa bao giờvất nó đi, để hy sinh mà cứu chúng sinh, vậy ta phải tiến lên để đập tan nhữngbức thành ngã chấp từ bao kiếp tới nay, để đạt tới pháp thân bất diệt.
Nghĩ xong liền ngồi dậy cố gắng đứnglên bàn cân nhìn vẻ mặt vẫn vui tươi!
Bấy giờ trời đất tự nhiên chuyểnđộng sáu lần, thiên cung nghiêng ngả, có rất nhiều người ở các cõi trời bayxuống xem, họ nhận thấy một ông vua, quên mình để cứu một con vật, tất cả nhângian thiên thượng, chưa từng ai làm nổi, họ đều cảm động rơi lệ chứa chan, vàtung các thứ hoa xuống cúng dàng.
Đối với lòng đại bi cứu sinh mộtcách dũng mãnh như vậy, vua Đế Thích cũng phải cảm phục và hiện lại nguyên hìnhrồi nói rằng:
- Kính thưa Ngài! Tôi thấy Ngài làmhạnh Bồ tát, nên tôi tới đây để thử Ngài đấy thôi, chính tôi đây là Đế ThíchVương là chúa cõi trời Đao Lợi. Nhưng xin hỏi Ngài: Ngài làm những việc màngười đời không làm nổi như vậy, để cầu làm gì ? Làm Đế Thích hay làm ChuyểnLuân Thánh Vương?
Nhà vua đáp: - Thưa Ngài tôi nguyệnđem lòng từ bi cứu hộ chúng sinh để cầu thành Phật, chứ không có ý cầu làm ĐếThích hay Chuyển Luân Thánh Vương mong hưởng những thú vui trong ba cõi.
Vua Đế Thích nói: - Nhà vua cắt thịtđau đớn như vậy, thì tâm có phàn nàn gì không?
Đáp: - Thưa không!
Vua Đế Thích nói: - Nhà vua nóikhông, việc đó thì ai biết? Tôi coi thân thể nhà vua run rẩy như vậy, khí sắcđã gần tuyệt, tự nói không thì lấy gì làm bằng?
Đáp: - Trước mặt Ngài tôi xin có mộtcụ thể để chứng tỏ lòng thành của tôi, nói xong Ngài lập thệ rằng:
- Kính lạy thập phương Đại Giác tamthế Hùng Sư ! Nếu con chí thành cầu đạo! Xin cho con lại được bình phục như cũ.
Thệ dứt lời, nhà vua lại được lànhmạnh như cũ, những vết thương tiêu tan, da dẻ lại tươi sáng hơn xưa.
Bấy giờ tất cả trời người phàm thánhai nấy đều tắc lưỡi bái phục tâm chí thành của nhà vua, và coi như một việcchưa từng có, thảy đều kinh sợ vui mừng!
- Kính lạy Ngài! Vua Thi Tỳ thuở đóchính là Ngài đấy, Ngài đã vì chúng sinh chịu cực khổ như vậy! Giờ phút nàychúng sinh đương bị chìm đắm trong bể sinh tử luân hồi; phơi thây trong rừng tàkiến, dục vọng! Ngóc đầu lên không ai vớt, gào kêu không kẻ chỉ đường. Kính xinNgài từ bi cứu tế thuyết pháp độ sinh, khiến cho khắp nhân thiên, phàm thánhđược mong ân đức hóa.
Vua Phạm Vương đứng trước đức Phậttán dương công đức, và tha thiết cầu thỉnh Ngài thuyết pháp độ sinh một cáchthành thực, nên đức Phật hứa lời ông thỉnh.
Đầu tiên Ngài đến nước Ba La Nạithuyết pháp ở vườn Lộc Uyển độ cho nhóm ông Kiều Trần Như năm người. Ngôi TamBảo từ đấy mới xuất hiện ở thế gian.
- Kính lạy Đức Thế Tôn ! Vừa đây con được biết ý niệm của Ngài, vì thấy chúng sinh điên đảo khó giáo hóa, nên Ngài muốn vào Niết Bàn, vậy con tới đây xin cầu thỉnh Ngài ở lại truyền Pháp cho đời, khiến ánh sáng chân lý lan tràn khắp cõi nhân gian thiên thượng muôn loài được thấm nhuần đức hóa, thoát qua khỏi luân hồi sinh tử trong sáu thú, đời đời được an vui tự tại nơi Phật Quốc. Kính xin Ngài hoan hỷ nhận lời thành kính cầu thỉnh của con.
Phật dạy: - Ông có lòng vì tất cả chúng sinh vậy cũng tốt, song tôi nhận thấy chúng sinh bị trần cấu che tối, say mê, tài sắc, danh vọng, ăn ngon, ngủ kỹ, tham dục, sân si, lòng dạ đen tối không có chút trí tuệ gì, vì thế tôi có ở đời cũng chỉ luống công thôi! Nên tôi muốn vào Niết Bàn là một sự an vui hơn.
Ông lại thưa rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Xin Ngài nhủ lòng thương đến con và tất cả chúng sinh trong cõi trời,cõi người, đương bị màn vô minh che tối, tìm ra không biết lối, ngày nay biển Pháp đã đầy, cờ Pháp đã dựng, thời đã tới, những chúng sinh có thể độ được, conxem số đó cũng khá đông nhiều. Vậy kính mong Ngài thi ân tế độ hoằng pháp lợi sinh.
Kính lạy Ngài! Con nhớ cách đây vôsố kiếp, cũng vì lũ chúng con nên Ngài từng góp nhặt, một bài kệ, cho đến mộtcâu đạo, đến nỗi quên mạng sống, bỏ cả vợ con yêu dấu, hy sinh vì Phật pháp,một cách rùng mình sởn gáy, tất cả không ai làm nổi, được những hạnh của Ngàiđã thực hiện, giờ đây Ngài đã thành tựu trên công cuộc tầm đạo giải thoát,chúng sinh như những áng cỏ trên mặt đất bao la bị sương mù phủ đậy đã lâu nămđương ngóc ngó ánh thái dương phản chiếu, để biến thành những bông hoa tươiđẹp. Kính lạy Ngài, xin chớ bỏ lũ chúng con để vào Niết Bàn.
Con lại nhớ kiếp qúa khứ cách đây đãkhá lâu xa có một ông vua tên là Tu Lâu Bà ở Châu Diêm Phù Đề, cai trị tám mươibốn ngàn nước nhỏ, sáu muôn núi sông, tám mươi ức Tụ Lạc, hai vạn bà Phu nhânvà một vạn quan Đại thần.
Đối với thời ấy, phúc đức và thế lựccủa vua Tu Lâu Bà không ai bì kịp, nhân dân thuở đó đức vua, được an lạc tháibình, mưa hòa gió thuận, vui sướng vô cùng vô tận!
Một hôm vua tự nghĩ rằng: -"Đối với vật chất ta đã giúp dân được đầy đủ, nhưng về tinh thần giải thoát cho con người chưa có. Nếu con người chỉ sống theo vật chất, sống theo tình dục, tâm như gỗ đá, tâm như cát sỏi tha hồ cho bốn tướng sinh, già, bệnh,chết lôi quanh, thì không khác chi thú vật, ăn no nằm mát, phơi mình trên đám phân tro, cho qua ngày đoạn tháng. Nhưng lẽ đó là lỗi ở ta, ta có trách nhiệm tìm đường giải thoát cho họ".
Nghĩ thế rồi Ngài ra yết thị và báocho thiên hạ biết rằng: "Nếu ai biết đạo giải thoát của Phật dạy nói chota hay, muốn dùng gì ta sẽ cung cấp cho đầy đủ".
Tuyên lệnh đã lâu, nhưng không thấyai đến nói, nhà vua luôn luôn mong mỏi, và tâm ý lúc nào cũng không được vui!
Sau đó ông Tỳ Sa Môn, là một ông vua cõi trời Tứ Thiên Vương thấy vậy bèn đến thử Ngài như sau.
Ông biến hình làm một con qủi DạXoa, mặt xanh lè, mắt đỏ như huyết, răng to như quả chuối măn, mọc chìa rangoài, tóc dựng ngược, mồm phun lửa đến cung vua giựt lấy bảng rồi nói: - Cácông vào báo cho nhà vua biết, tôi có Phật Pháp, nhà vua muốn nghe, tôi sẽ giảngcho.
Quan Môn Giám nhận lời, vào tâu vuarằng:
- Tâu bệ hạ ngoài thành có một ngườihình thể khá sợ, tự nói có Phật Pháp, và xin nói cho bệ hạ nghe, việc đó thếnào xin cho hạ thần được rõ ?
Nhà vua nghe nói, vui vẻ đội mũ mặcáo chỉnh tề, tự ra đón tiếp mời vào chánh điệ⮠và nhường ngồi trên ngai vàng,thiết đãi một cách rất trọng hậu.
Sớm ngày mai nhà vua bày một tòa caođẹp, trà nước xong xuôi, đánh trống ca nhạc rước Pháp sư thăng tòa thuyết pháp,Pháp sư lên tòa ngồi yên tĩnh. Lúc đó có đông đủ quan quân, dân chúng, nhà vuara lễ bái Pháp sư, rồi quỳ xuống xin Pháp sư thuyết pháp.
Pháp sư nói:
- Học pháp rất khó, ông muôn đượcnghe không phải dễ.
Nhà vua thưa rằng: - Kính thưa Phápsư! Thương đến chúng tôi là kẻ ngu si, việc nghe Pháp phải đúng lễ thế nào, xincho chúng tôi được rõ.
Pháp sư nói: - Nếu nhà vua đem vợyêu con quí cho ta ăn, thì ta sẽ nói cho nghe.
Nghe xong nhà vua vui vẻ thọ giáo,bái tạ lui ra trở về cung gọi vợ con nói:
- Tôi xin nói để các người hay: vợchồng cha con, yêu nhau trong vòng sinh tử, ân ái có ngày biệt ly, tôi muốn tìmcon đường giải thoát, cho tôi và lũ ngươi, vì thế tôi muốn đem thân mạng của lũngươi dâng Pháp sư để cầu thành Phật; ý thế nào cho tôi được rõ ?
Nghe xong hoàng hậu và thái tử liềnquỳ xuống, xin tuân lời chỉ giáo.
Được sự đồng ý rồi nhà vua liền đemvợ con dâng Pháp Sư. Pháp sư nhận rồi, ngồi trên tòa cao, giữa đám hội đôngngười nghiểm nhiên ngồi ăn, nháy mắt đã ăn hết, mọi người thấy thế đều lắc đầu,lè lưỡi, kinh sợ hãi hùng.
Khi đó quần thần, dân chúng, thấynhà vua hành động như vậy, ai nấy đều không bằng lòng, và cho nhà vua qúa ư mêchấp. Song họ có biết đâu nhà vua làm những việc mà người đời không ai làmđược. Họ như con ếch nằm trong đáy giếng, chưa bao giờ nhìn thấy biển Đông. Sựnhìn xa trông rộng không phải kẻ phàm ngu có thể so sánh.
Tiếp đến Pháp Sư đọc bài thơ nhưsau:
Nhất thiếthành vô thường.
Sinh giảgiai thị khổ !
Ngũ ấmkhông vô tướng.
Vô hữungã, ngã sở.
Nghĩa là :
Hếtthảy đều vô thường,
Sinhra tất phải khổ !
Nămấm không có tướng.
Tavà của đều không.
Nhà vua nghe xong vui vẻ khôn xiết !Sai người chép lấy, để ban phát cho mọi người trong nước, bắt ai cũng phải tụngđọc.
Bấy giờ Pháp Sư (quỉ Dạ Xoa) thấyvua có vẻ bình thản như vậy, liền hiện lại nguyên hình, nói rằng : "Quíhóa nhà vua ! Biết tôn trọng Chánh Pháp như vậy không bao lâu Ngài sẽ đượcthành Phât". Nói xong, bỗng nhiên lại thấy phu nhân và thái tử hãy còntoàn vẹn.
Kính thưa Ngài ! Vua Tu Lâu Bà thuởđó chính là ngài đẫy. Xưa kia Ngài đã hy sinh vì Pháp như vậy, sao nay Ngài nỡbỏ chúng sinh để vào Niết Bàn ?
Kính lạy Ngài ! Lại một kiếp nữa,thuộc thời quá khứ, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một ông vua tên là Kiền Sá NiYết Lê, thống trị nhiều nước, tám vạn bốn ngàn Tụ Lạc, hai muôn Phu Nhân và thểnữ, một vạn quan Đại Thần. Nhà vua nhân hiền, yêu thương tất cả, nhân dân sungsướng, cây cỏ xanh tươi. Dân coi vua như một người cha lành.
Nhà Vua tự nghĩ như vầy : "Tađược địa vị cao sang, tôn trọng quý giá ! Là do trước kia ta đã tạo nhân lành.Hiện nay nhân dân được an vui sung sướng ! Tuy thế, chỉ an vui về vật chất,song vật chất có ngày hoại diệt, không phải một sự an vui lâu dài vĩnh viễn,muốn cho chính mình và tất cả chúng sanh, được an vui vĩnh viễn, ta phải tìmđạo giải thoát do Phật dạy mới có kết quả".
Nghĩ thế rồi vua sai các quan viếtbảng cáo thị, và truyền lệnh cho khắp trong nước biết : "Nếu ai có DiệuPháp, nói cho ta nghe, ý muốn gì ta sẽ cung cấp cho đầy đủ".
Sau có người Bà La Môn tên là Lao ĐộSai, đi tới nói rằng: - Tôi có Diệu Pháp, các ông vào báo cho vua biết.
Quan Môn Giám liền đem tin ấy vàotâu vua. Nhà vua nghe nói, ý rất vui mừng, mũ áo trang nghiêm, tự ra lễ bái,hỏi han ân cần trịnh trọng rồi mời vào trong chánh điện, bày giải một tòa caođẹp, mời Pháp sư lên tòa ngồi yên tĩnh. Vua và hai bên tả hữu chắp tay thưarằng:
- Kính thưa Đại sư, được hạnh phúccho chúng tôi nhiều lắm! Hôm nay Đại sư có lòng thương đến chúng tôi mà tớiđây. Vậy kính xin thể lòng từ bi cao cả, thuyết Diệu Pháp cho chúng tôi đượcthừa thụ.
Lao Độ Sai đáp: - Ta có trí tuệ cũngphải mất bao công khó nhọc, tìm mãi ở phương xa, dầy công học tập, không phảilà một việc dể dàng quá như vậy.
Nhà vua thưa: - Kính thưa Đại sư, ýĐại sư thế nào xin dạy bảo cho chúng tôi được rõ ?
Lao Độ Sai nói: - Nhà vua muốn đượcnghe Pháp, thì phải khoét trên mình ra một ngàn lỗ, đổ dầu cho bấc, đốt lửacúng dàng ta, thì ta sẽ thuyết cho nghe.
Nghe nói, nhà vua vui vẻ nhận lờixin khoét, và khất lại bảy ngày để báo cáo cho dân chúng biết, lời báo cáo nhưsau:
"Tất cả quốc dân nên biết: VuaKiền Sà Ni Yết Lê sau bảy ngày nữa vì sự cầu đạo, sẽ khoét trên mình ra ngànlỗ, đốt đèn cúng dàng Pháp Sư, ai muốn nghe, và xem sự hy sinh cúng dàng củanhà vua thì đến".
Bấy giờ các ông vua nước nhỏ và nhândân các nước, hay tin ai cũng buồn rầu, cùng nhau đến yết kiến và tâu rằng:
- Kính thưa Đại Vương ! Tất cả muôndân nhờ phúc đức của Đại Vương được an lạc thái bình, như kẻ mù được nhờ câygậy, con dại ngóng mẹ hiền, nếu Đại Vương khoét mình đốt đèn, tất nhiên tuyệtmạng, thì muôn dân trông cậy vào ai ? Xin không nên vì một người mà nỡ bỏ chúngsinh trong thiên hạ.
Sau đó hai muôn bà phu nhân, và nămtrăm thái tử, một vạn Quan Đại Thần, tất cả đều can vua việc đó.
Nhà vua liền lớn tiếng nói:
- Các ông không nên cản trở tôi, tôihy sinh thân này để nghe một câu đạo, sau này tôi thành Phật, tôi sẽ độ cho lũcác ông trước.
Họ thấy nhà vua khẳng khái như vậy,ai nấy đều tha thiết kêu van! Nhưng vua cũng quyết định không thay đổi ý kiến.
Hết hạn bảy ngày nhà vua tới trướcPháp sư làm lễ và thưa rằng:
- Kính thưa Đại sư, chúng tôi xindốc lòng thành kính, theo lời chỉ giáo của Đại sư! Để bắt đầu khoét mình đốtđèn cúng dàng, xin Đại sư hoan hỷ !
Nói xong nhà vua sai khoét, nhưngkhông ai dám khoét. Sau đó có người Chiên Đà La đến khoét hộ cho vua, anh nàykhoét xong, vất dao xuống đất chạy mất, khi đổ dầu bỏ bấc xong mọi người coithấy ai cũng rùng mình run sợ !
Nhà vua thưa rằng:
- Kính xin Đại sư thuyết pháp trước,sau sẽ đốt lửa, sợ mạng tôi tuyệt thì không nghe pháp.
Lao Độ Sai đọc bài thơ rằng:
Thường giảgiai tận.
Cao giảtất trụy ?
Hợp hộihữu ly
Sinh giảhữu tử.
Nghĩa là :
Thườngrồi có hết,
Caothì phải rơi,
Hợprồi có tan,
Sinhthì có tử.
Đọc xong vua sai đốt lửa, trong khilửa cháy dữ dội, vẻ mặt nhà vua vẫn nghiễm nhiên tươi tỉnh, không hề biến sắc.Ngài tự phát thệ rằng:
- Tôi chịu đau khổ để cầu nghe đạogiải thoát, nguyện đem công đức này hướng về Phật qủa, sau khi được thành, tôisẽ lấy trí tuệ quang minh, phá ngu si hắc ám cho tất cả chúng sinh.
Nói dứt lời, thì trời đất tự nhiênchuyển động, tới cõi trời Tịnh Cư. Khi đó các người cõ Trời ngó xuống xem, thấymột vị Bồ Tát đốt mình làm đèn cúng dường Pháp Sư để nghe pháp, một cách rùngrợn ! Họ bay xuống đứng kín cả hư không, ví sự cảm động quá ! Nên nhiều ngườisa nước mắt roi xuống thành mưa, đồng thời họ lại tung hoa xuống để cúng dàng.Vua Đế Thích đến tận nơi, tới trước khen và hỏi rằng:
- Nhà vua đau khổ như vậy thì có hốihận gì không?
Nhà vua đáp: - Thưa không!
Đế Thích nói: - Tôi thấy nhà vua runrẩy không yên như vầy, tự nói không hối, lấy gì chúng cớ biết rõ được?
Đế Thích nói dứt lời, thì Ngài tựthề rằng:
- Nếu tâm tôi thủy chung như một,không hối hận gì, thì xin lỗ trên mình tôi, lại được bình phục như cũ.
Vì lòng chân thực cầu đạo pháp thathiết, cảm động mười phương, nên những lỗ trên mình tự nhiên lại được bình phụcnhư cũ, thân thể lại tốt lành hơn xưa.
Kính lạy Ngài! Ông vua khoét mìnhđốt đèn để cầu đạo thuở đó, chính là Ngài đấy. Ngài đã cực khổ cầu Pháp nhưvậy, tới nay đã đầy đủ, tại sao không thuyết Pháp? Vào Niết Bàn làm chi, đểchúng sanh mất con mắt quang minh trí tuệ ?
Kính lạy ngài ! Lại một đời quá khứnữa, cũng Châu Diêm Phù Đề này có một ông vua, tên là Tỳ Lăng Yết Lê thống trịđược nhiều nước, tám vạn bốn ngàn Tụ Lạc, hai muôn bà Phu Nhân và thể nữ, nămtrăm Thái Tử, một vạn quan Đại Thần. Nhà vua có đức nhân, coi dân như con đẻ,lại ham nghe chánh pháp, nên sai quan Đại Thần tuyên lệnh cho toàn quốc biếtnhư sau:
- Thông cáo cho toàn quốc biết:Hoàng Thượng muốn được nghe Phật Pháp, ai biết đến nói cho ngài nghe, Ngài sẽtrọng thưởng tùy ý muốn.
Cách thời gian lâu, có một ngườidòng Bà La Môn, tên là Lao Độ Sai tới cung môn nói: - Tôi là người đã từngnghiên cứu và tu tập giáo lý của Phật đã lâu, xin ông hãy vào tâu Hoàng Thượngcho.
Theo lời yêu cầu của Lao Độ Sai,quan Môn Giám vào tâu vua.
Nhà vua được tin rất vui vẻ, đội mũmặc áo trang nghiêm, thân ra cổng thành, trịnh trọng chào hỏi, rồi mời vàotrong chánh điện, thiết đãi trọng hậu. Sớm ngày mai vua sai bày một tòa caođẹp, thỉnh Pháp sư thăng tòa ngồi yên tĩnh.
Nhà vua và bá quan, nghiêm chỉnhthân tâm, tới trước Pháp Sư cúi đầu lễ lạy, rồi qùy xuống thưa rằng: - Kínhthưa Đại Sư phát tâm từ bi, thuyết pháp cho chúng tôi được thừa ân công đức!
Lao Độ Sai đáp: - Sự hiểu biết củata đây, là do ta chịu khổ đã lâu năm, đi tìm học ở bốn phương xa mới được; nhàvua coi sự học một cách dễ dàng quá !
Nhà vua toát mồ hôi, một lòng kínhcẩn thưa rằng :
- Kính thưa Đại sư ! Việc nghe đạophải đúng quy tắc thế nào ? Chúng tôi là
kẻ trần tục phàm phu, không biết sựlễ Pháp bao giờ, xin Đại sư chỉ dạy cho?
Đáp : - Nhà vua có thể đóng lên mìnhmột ngàn cái đinh sắt, được như vậy ta sẽ
thuyết pháp cho nghe.
Nhà vua thưa : - Dạ ! Xin tuân lờidạy bảo của Đại sư, và xin ngài cho lui lại
bảy ngày, để báo cáo cho dân biết.
Nói xong lễ tạ lui ra, lời báo cáonhư sau :
- Tất cả toàn quốc nên biết, tôi làNhân Chúa Tỳ Lăng Yết Lê, vì muốn được
đạo giải thoát cho chính tôi, vàtoàn thể, nên tôi đóng đinh trên mình một ngàn cái, cúng dàng Pháp sư, quốc dânai muốn biết sự thực hành của tôi, sau bảy ngày nữa xin mời đến.
Dân chúng được tin nhà vua đóng đinhtrên mình, để cầu nghe giảng đạo. Họ nô nức kéo nhau đến kinh thành rất đông,sau đó một số đại biểu của dân chúng lên tâu vua rằng :
- Kính tâu Hoàng Thượng ! Lũ chúngtôi thay mặt cho toàn thể quốc dân, đến
đây kính mừng Thánh thượng, thọ lạcthiên thu, hưởng phúc lâu dài chúng tôi tự biết, nhờ ơn đức Hoàng Thượng nênđược thái bình an lạc, cúi xin thương đến toàn thể quốc dân, miễn bỏ sự đóngđinh trên mình.
Sau đó, tiếp đến Phu nhân, thể nữ,thái tử, quan đại thần cũng đồng thanh tâu
vua xin miễn bỏ việc đó.
Nhà vua đáp : - Tôi nhận thấy đã baokiếp tới nay, bị sống thác trong vòng sinh tử luân hồi, thân mạng đã mất đi vôsố; những thân mạng ấy cũng chỉ đeo những tấm lòng tham dục, giận tức, ngu si,nhìn lại số xương thịt trong những kiếp sinh tử ấy, có thể chất cao hơn núi TuDi, đầu rơi máu chảy ra nhiều hơn nước sông lớn; nước mắt khóc người thân nhiềuhơn nước bốn bể; những thân mạng sống chết đó, chẳng qua cũng chỉ uổng mà thôi,chưa từng bao giờ vì đạo pháp má hiến thân. Tôi đóng đinh cúng Pháp Sư để cầuthành Phật, sau khi thành Phật, tôi sẽ lấy trí sáng suốt để trừ diệt bệnh kếtsử của lũ các người, và đưa dắt các người lên đường giác ngộ giải thoát thànhPhật, một việc ích lợi chung cho toàn thể chúng sinh, can tôi làm chi ?
Theo lời nhà vua tuyên bố, mọi ngườiai nấy đều im lặng, không dám nói năng gì hết.
Tới giờ phút này nhà vua đến trướcPháp sư thưa rằng :
- Kính xin Đại Sư ra ân, thuyết pháptrước đóng đinh, nếu đóng trước, thì tôi
sẽ chết không được nghe.
Đại Sư đọc bài thơ rằng :
Nhất thiếtgiai vô thường,
Sinh giảgiai hữu khổ !
Chư phápkhông vô chủ.
Thực phi ngã sở hữu
Nghĩa là :
Tấtcả đều vô thường
Sinhấy đều có khổ !
Cácpháp không có chủ.
Thực chẳng phải ta có.
Pháp Sư đọc xong, nhà vua vui mừng,sai người viết lấy bài thơ ban bố cho quốc dân, bắt ai cũng phải tụng đọc.
Giờ phút bắt đầu, nhà vua sai ngườiđóng đinh, thì tất cả các ông vua nước nhỏ, và quân thần, dân chúng trong đạihội, đều gieo mình xuống đất than thở. Trời đất chấn động sáu lần, các ôngthiên tử trên trời bay xuống, thấy ngài hy sinh cầu đạo như vậy, ai nấy đều cảmđộng, rơi lệ chứa chan, một lòng tôn kính tung hoa xuống cúng dàng. Vua ĐếThích xuống tận nơi hỏi rằng:
- Nhà vua quyết liệt tâm chí, cầuđạo không tiếc mạng sống như vậy, để nguyện đời mai sau làm gì ? Làm Đế Thíchư, làm Chuyển Luân Vương ư, làm Ma Vương, Phạm Vương ư ?
Đáp: - Thưa Ngài! Tôi quên mình đểcầu đạo giải thoát của Phật, để cầu làm Phật, và tế độ cho chúng sinh cũng đượcgiải thoát, chứ tôi không cầu phúc báo ở ba cõi sinh tử, như Đế Thích, ChuyểnLuân Vương, Ma Vương hoặc Phạm Vương.
Đế Thích hỏi: - Tôi coi nhà vua đauđớn như thế, thì tâm có hối hận gì không?
Đáp: - Không!
Đế Thích hỏi: - Ngài nói không thìlấy gì chứng tỏ ?
Nhà vua liền lập thệ thư sau:
- Nam mô tận hư không biến pháp giớiquá, hiện, vị lai chư Phật, tôn Pháp, Bồ Tát Hiền Thánh Tăng tác đại chứngminh, con chí thành cầu Bồ đề, nếu tâm không hối hận, thì thân thể lại đượcbình phục như củ.
Phát thệ dứt lời, thì những cái đinhbật hết ra ngoài, thân thể quả nhiên lại được bình phục như cũ.
Khi đó tất cả trời, người và quanquân, dân chúng chứng tỏ tâm của Ngài thành thật cảm ứng như vậy, ai nấy đều vỗtay vui mừng không tả xiết !
- Kính lạy Ngài! Ông vua đóng đinhtrên mình thuở đó, chính là Ngài đấy! Tâm Ngài lớn như biển cả, rộng như hưkhông, đã phá tan những tập kiến chúng sinh, chúng đương ngoai ngáp trong chốnbùn lầy, nghẹt thở nơi hang tối. Kính lạy Ngài chớ bỏ đàn con đau khổ mà vàoNiết bàn.
- Kính lạy Ngài! Lại một kiếp nữa,thuộc thời qúa khứ đã quá lâu, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một ông vua tên làPhạm Thiên, sinh được một thái tử tên là Đàm Ma La Kiềm.
Thái tử có trí tuệ khôn sáng, ưa ởnơi thanh vắng, ít sự xa hoa dục vọng, có tính tìm tòi chân lý, ham nghe chánhpháp, nên thường sai người đi khắp đông tây, kiếm thầy học đạo, đã nhiều lần,nhưng không gặp được một ai là người có chánh pháp giải thoát. Trong thời giantìm thầy chưa được, Thái tử thấy luôn luôn khổ não, làm cho không lúc ngớt ýnghĩ nói trên.
Bấy giờ vua Đế Thích biết Thái tửlòng thành như vậy, liền hóa thân làm người dòng Bà La Môn, đi đến kinh thành,tới chỗ đông người nói rằng:
- Các bạn nên biết, tôi là ngườihiểu biết Phật Pháp, nếu bạn nào muốn nghe, tôi sẽ giảng giải cho.
Họ liền đến mách bảo Thái tử, ngoàithành có người tự xưng hiểu giáo lý đạo Phật.
Thái tử được tin thấy lòng vui sướngvô cùng, vào phòng đội mũ tề chỉnh, và đem một số người theo hầu, ra tiếp đónPháp sư, lễ bái, hỏi han rồi mời vào trong cung nơi biệt thự, thết đãi trịnhtrọng.
Sớm ngày mai trà nước xong xuôi,vầng thái dương mới nhôn khỏi núi ánh bình minh vừa tỏa khắp cõi không gian,bầu trời yên lặng, thanh khí ôn hòa! Thái tử sai người bày tòa giảng thuyết,Pháp Sư lên tòa ngồi yên tĩnh. Thái tử tới trước lễ bái, quỳ gối chắp tay thưarằng:
- Kính thưa Đại Sư, chúng tôi bịnhững bức thành mờ tối vô minh dục vọng đã bao kiếp, là do không được gặp chánhpháp của Như Lai, chúng tôi thành kính trước ngài, ngửa mong từ bi giảngthuyết, để cho hết thảy được ân triêm đức hóa?
Đại sư nghiêm nét mặt đáp:
- Học đạo không phải một việc dễ, tađã biết bao công trình tìm thấy tu học, mới được hiểu biết. Người chưa chút khónhọc, nay muốn được nghe ngay, thực là coi sự học đạo dễ dàng quá.
Thái tử thưa rằng: - "Kính thưaĐại Sư ! Từ thân tôi cho đến vợ con tôi, vàng bạc châu báu, Đại Sư dạy bảo thếnào, chúng tôi xin tuân mệnh không dám trái ý".
- Đại sư đáp: "Muốn nghe pháp,Thái tử hãy đào một hố lớn, sâu chừng mười trượng, ở dưới đốt than cho thật đỏhồng, rồi Thái tử nhảy vào hố lửa ấy, cúng dàng ta, thì ta sẽ thuyết pháp.
Thái tử nói: - Dạ xin tuân lời dạycủa Đại Sư.
Sau khi Thái tử sai người đào hố thìnhà vua biết tin. Từ vua cho đến tất cả mọi người trong Hoàng cung ai ai cũnglo phiền, và khuyên can, nhưng Thái Tử quên mình vì sự cầu đạo giải thoát, nênkhông nghe theo những lời khuyên can ấy.
Sau nhà vua và các quan đều thưa vớiĐại Sư rằng:
- Kính thưa Đại Sư ! Thương đến lũtôi, để miễn bỏ việc Thái tử nhảy xuống hố lửa, ngoài ra Đại Sư muốn dùng gìchúng tôi xin dâng.
Đại Sư đáp: - Việc đó tùy ý Thái tử,ta không bó buộc, đúng thế thì ta thuyết pháp, bằng không thì thôi!
Nhà vua thấy tâm địa của Đại Sưkhẳng khái quá, nên ngài cũng vái chào rồi trở ra về, không nói năng gì nữa.
Trở về nhà vua sai người đi thôngbáo cho quốc dân biết rằng:
Lời thông báo như sau: - Tất cả quốcdân nên biết, sau bảy ngày nữa Thái tử vì sự nghe đạo, nên xả thân, nhảy xuốnghố lửa, ai muốn thấy việc đó, thì lại sớm nơi đây.
Nhân dân được tin Thái tử nhảy xuốnghố lửa, họ nô nức kéo nhau đi đến kinh thành đông như hội, sau đó một số Đạibiểu của nhân dân, tới thưa với Thái tử rằng:
- Kính thưa Thái tử : Lũ chúng tôihay tin Ngài vì sự nghe đạo nhảy xuống hố lửa, lợi ích chưa thấy đã thấy sựtang thương cho quốc dân! Vậy kính mong Ngài miễn bỏ việc đó, để cho quốc giađược an lạc.
Thái tử đáp: - Các ông lẳng lặng đểnghe tôi nói, thiệt hại hay lợi ích. Nhận thấy con người sống thác từ đời vôthủy cho tới ngày nay, không số tính, chết cõi này sinh cõi kia luân chuyển nhưbánh xe quay không mối. Trong loài người vì lòng tham dục, nên giết hại lẫnnhau; trên cõi trời khi hết tuổi thọ, thì lo về mất sự dục lạc; nơi địa ngụclửa đốt suốt ngày đêm, nào nước sôi, búa chém, dao đâm, núi dao, rừng kiếm,hành phạt con người vô cùng thảm khốc, trong một ngày chết đi sống lại biết baolần, sự hình ngục không thể giải bày cho xiết. Cái khổ trăm thứ tên độc xiêndùi vào mình loài ngạ quỉ. Cái khổ kéo cày chở nặng loài súc sinh, sau lại dângthân cho người ăn thịt, những nỗi khổ như thế, khó nói hết trong những kiếp đãchịu đoạ đày, xét lại những thân mạng ấy chỉ uống mà thôi, có làm được một việcgì về vấn đề giải thoát cho chính mình và chúng sinh trong pháp giới, ai đãbiết đem thân ấy chết về việc nghe đạo bao giờ. Ta đem dâng thân này, cúng dàngđể nghe đạo giải thoát, sau thành Phật, ta sẽ đem lại cho lũ các ông năm phậnpháp thân, can chi phải ngăn cản công việc ta đã quyết định làm.
Mọi người nghe Thái tử nói xong, ainấy đều nín thinh, không dám trả lời sao hết.
Khi sắp nhảy xuống hố lửa Thái tửnói:
- Kính thưa Đại Sư ! Xin thuyết pháptrước khi tôi nhảy xuống hố.
Đại Sư đọc bài thơ như sau:
Thườnghành ư từ tâm,
Trừ khứkhuế, hại tưởng.
Đại bi mẫnchúng sinh !
Căngthương vị vũ lệ !
Tu hànhđại hỷ tâm,
Đồng kỷ sởđắc pháp.
Cứu hộ dĩđạo ý
Nãi ưng Bồ Tát hạnh.
Nghĩa là :
Thườnglàm theo tâm từ
Trừbỏ tưởng, giận hại.
Đạibi thương chúng sinh !
Quặnlòng rơi nước mắt !
Tulàm tâm đại hỉ,
Vớimình cùng đắc pháp,
Cứugiúp bằng đạo lý,
AṠlà hạnh Bồ Tát.
Khi sắp gieo đầu xuống hố lửa thìvua Đế Thích và vua Phạm Vương chạy lại cầm tay hỏi gạn rằng:
- Thái tử hãy khoan, để tôi nóichuyện đã : Một ông vua có đức nhân, thì muôn dân được an lạc ! Chúng tôi nhậnthấy Thái tử là người đức tầy bốn biển, Phụ Hoàng yên lòng có người nối trịnuôi dân, hà tất vì một câu đạo mà bỏ tất cả chúng sinh trong thiên hạ, theo ýchúng tôi thì không nên quá ư thiên chấp như vậy.
Thái tử đáp lời rằng:
- Thưa quý Ngài! Tôi nhận thấy phầnnhiều người, chỉ biết lúc an vui, chớ không lo một ngày gặp tai nạn! Chỉ biếtcái sống hôm nay mà không sợ cái chết của ngày mai. Sở dĩ tôi làm một việc cóthể an vui mãi mãi, cho chúng tôi và tất cả chúng sinh, chứ không phải tôikhông biết thương chúng sinh! Quý Ngài không nên cản trở đạo tâm cao cả của tôilàm gì.
Nói xong Thái tử nhảy xuống hố lửa!Tự nhiên trời đất chuyển biến làm cảm động cả thiên cung. Khi đó mọi người đềusa nước mắt, cũng có người lên tiếng khóc thương! Giờ phút đương làm cho mọingười khủng hoảng, thì hố lửa ấy tự nhiên biến thành một ao sen, mùi hương thơmngào ngạt, những làn gió thổi mát, thấu đến tâm phủ của mọi người, họ nhìn vàothấy Thái tử ngồi trên đài sen, ai nấy đều vui mừng không tả xiết. Lúc đó hoatrên trời bay xuống như mưa. Vua Đế Thích, vua Phạm Thiên cũng phải cất tiếngkhen rằng:
- Quý hóa! Cầu đạo như vậy, sau nàyquyết định thành Phật.
Kính lạy Ngài! Nhà vua thuở đó naylà thân phụ Ngài (Tịnh Phạn Vương), bà Hoàng hậu thuở đó nay là thân mẫu Ngài(Ma Gia), Thái tử nhảy xuống hố lửa chính nay là Ngài, cũng vì thương chúnhsinh, cầu pháp như ngài đó, nay đã thành công, cúi xin Ngài từ bi thuyết pháp,tế độ quần sinh qua nơi biển khổ !
Kính lạy Ngài! Lại một đời quá khứnữa, tới nay vô lượng kiếp, cũng Châu Diêm Phù này có một nước tên là Ba LaNại, nước ấy có năm trăm vị Tiên sĩ tu trong núi, ông Uất Đà La làm thầy các vịTiên này, tuy ông tu theo Tiên đạo, nhưng ông hằng mong được gặp chánh pháp củaNhư Lai (Phật), ông đã từng đi khắp bốn phương trời, và thông báo cho thiên hạbiết rằng:
- Tôi Đại Tiên sĩ rất muốn được nghechánh pháp của đức Như Lai, ai biết nói cho tôi nghe, nếu muốn dùng gì tôi xindâng biếu.
Khi đó có một người dòng Bà La Môntới chỗ ông nói rằng:
- Nghe biết Tiên sĩ muốn tìm hiểuchánh pháp của Như Lai, chính tôi là người hiểu biết giáo pháp của Như Lai, nếuNgài muốn hocỏi, tôi sẽ thành thực giảng thuyết, nhưng nghe là một việc rấtkhó.
Đại Tiên thưa: - Kính thưa Đại sư việcnghe pháp phải thế nào xin Ngài dạy bảo cho?
Đáp: - Ngài có thể lột da của Ngàiđể làm giấy; chẻ xương của Ngài dùng làm bút; lấy máu của Ngài để làm mực viếtlấy giáo pháp của Như Lai, thì tôi sẽ thuyết cho Ngài nghe.
- Dạ, rất đa tạ Đại Sư, chúng tôixin tuân lời của Đại Sư dạy.
Nói dứt lời ông sai người lấy daolột da, chẻ xương, lấy máu thực sự, làm xong ông ngửa mặt thưa rằng:
- Dạ, kính xin Đại Sư đọc để chúngtôi tiện viết ạ !
Đại sư đọc bài thơ rằng:
Thườngđương nhiếp tâm hành
Nhi bấtsát, đạo, dâm;
Bất lưỡngthiệt ác, khẩu,
Vọng ngôn,cập ỷ ngữ.
Tâm bấttham chư dục;
Vô sân,khuể, độc tưởng;
Xả ly chưtà kiến.
Thị vi Bồ tát hạnh.
Nghĩa là :
Thườngphải nhiếp tâm hành.
Màkhông sát, trộm, dâm,
Khônghai lưỡi, nói ác;
Nóidối, nói đơm đặt,
Tâmkhông tham mọi dục;
Khôngsân giận, độc tưởng;
Xalìa mọi tà kiến:
AṠlà hạnh Bồ tát.
Đại Sư thuyết xong thì Ngài viếtcũng vừa xong. Từ đó Ngài dùng bài thơ này đi khắp nhân gian để dạy bảo cho mọingười biết lối tu hành. Những người được hàm ơn Ngài giáo hóa, khi mạng chungđược thoát khỏi ba đường ác sinh lên cõi Trời, cõi Người, hương phúc vô cùng vôtận.
- Kính lạy Ngài! Ông Tiên ngày đóchính là Ngài đấy, Ngài đã vì chúng sinh cầu học đạo một cách khổ cực đến nhưvậy, tại sao lại bỏ để vào Niết Bàn mà không thuyết pháp?
- Kính lạy Ngài! Lại một thời quákhứ nữa, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một ông vua tên là Thi Tỳ, ở thành Đế BàBạt Đề, dân nước lúc đó giàu thịnh vô cùng. Nhà vua thống trị tám vạn bốn ngànnước nhỏ, sáu muôn núi sông, tám ngàn ức dân ấp. Nhà vua có hai muôn bà phunhân và thể nữ, năm trăm Thái tử, một vạn quan Đại thần. Vua có hạnh từ bi,thương dân như con đỏ.
Trên Trời lúc ấy, Vua Đế Thích gặplúc năm đức ly thân, sắp tới ngày tận số (chết) khí sắc ông lúc nào cũng âusầu, ông Tỳ Thủ Yết Ma thấy thế, bèn hỏi rằng:
- Tâu Bệ hạ ! Hồi này Hạ thần coikhí sắc của Bệ hạ kém xưa nhiều lắm, chẳng hay có chuyện chi, xin nói cho Hạthần được rõ.
Đế Thích đáp: - Khanh không biết haysao? Hoa trên đầu ta đã héo, tử chứng đã xuất hiện, mạng sống chẳng còn được làbao, hiện nay ở thế gian không có giáo pháp của Như Lai, ta không biết quihướng về đâu nên ta buồn!
Ông Tỳ Thủ Yết Ma thưa rằng: - TâuBệ hạ hiện nay ở thế gian thuộc Châu Diêm Phù có một ông vua tu theo hạnh Bồtát, tên là Thi Tỳ, tâm ý bền vững và tinh tiến lắm, sau này quyết định thànhPhật, xin Bệ hạ tới đó quy y, thì lai sinh sẽ được đầy ý nguyện, đầy vẻ tônvinh trên cõi nhân, thiên, hoặc xuất thế gian".
Vua Đế Thích nói: - Nếu như qủa nhưlời của khanh nói, thì may cho ta lắm, nhưng phải thử xem hư thực thế nào. Vậykhanh hóa làm con chim Bồ Câu, ta hóa làm chim Cắt, khanh bay trước ta bay sau,khi tới nơi khanh bay vào lòng nhà vua, và yêu cầu vua cứu, còn ta đến sau tasẽ đòi trả để ăn thịt, xem nhà vua giải quyết thế nào.
Tỳ Thủ Yết Ma nói: - Tâu Bệ hạ ! Bồtát là người từ bi phúc đức, chúng ta nên cúng dàng, và ủng hộ là phải, chứkhông nên làm những sự đau khổ đến Bồ Tát.
Vua Đế Thích liền đọc bài thơ đáprằng:
Ngã diệcphi ác tâm,
Như trânbảo ưng thí.
Dí thử thíBồ tát,
Tri vi chíthành phủ ?
Nghĩa là :
Tacũng chẳng ác tâm.
Nếuthực vàng nên thử.
Đểthử Bồ tát xem,
Cóthực chí thành không?
Vua Đế Thích đọc xong, bắt đầu TỳThủ Yết Ma hóa làm chim Bồ Câu bay trước, Vua Đế Thích hóa làm chim Cắt baysau. Khi tới cung thành, chim Bồ Câu bay thẳng vào lòng nhà Vua tỏ vẻ sợ hãi,rồi kêu Vua cứu. Chim Cắt bay tới sau, đứng ở trên điện nói:
- Tâu Bệ hạ ! Xin Ngài trả lại chotôi con chim Bồ Câu ấy?
Đáp: - Trả cho ngươi để làm chi?
- Tâu Bệ hạ ! Nó là món ăn của tôi, tôi đương đói trả để tôi ăn.
- Tâu Bệ hạ ! Ngài tự nói cứu tế chomuôn loài, mà cướp món ăn của tôi, thì tôi phải chết đói, đối với tôi khôngphải là một trong muôn loài hay sao!
Đáp: - Ngươi đói thì có thể dùng thứthịt khác được không?
- Tâu Bệ hạ ! Vâng! Cũng được nhưngphải cho tôi thứ thịt hãy còn tươi, máu hãy còn nóng, thì tôi dùng.
Nhà Vua thầm nghĩa: - Nếu thế thìphải giết một con vật khác; nhưng nếu giết một con, cứu một con cũng vô ích,chi bằng ta cắt thịt của ta thay thế cho nó là hơn.
Nghĩ xong lấy dao cắt một miếng thịtđùi ra trao cho chim Cắt và nói rằng:
- Đây! Ngươi dùng miếng thịt của tađể thay chết cho Bồ Câu.
Chim Cắt ra cách không hài lòng nói:
- Tâu Bệ hạ ! Ngài đã mang danh làvị Đại Thí chủ, đã dùng con mắt bình đẳng đối với tất cả, tôi đây tuy là mộtcon chim nhỏ thực, nhưng nếu theo sự công bình, thì Ngài phải bắt cân để chimmột bên thịt một bên; thịt và chim bằng nhau thì tôi sẽ nhận.
Theo lời chim nói có lý phải, nênnhà vua sai người bắt cân, để chim một bên để thịt nhà vua một bên, bắt đầu đểmột miếng hãy còn nhẹ, lại cắt thêm miếng nữa, vẫn thấy còn nhẹ, dĩ chí nhà vuacắt hết một vế đùi, nhưng vẫn nhẹ như thường, sau cắt hết hai vế đùi, cho đếnhai cánh tay, hai bạng mỡ, song vẫn còn nhẹ sau róc hết các thớ thịt ra để lêncũng vẫn còn thấy nhẹ, chim vẫn nặng hơn, nhà vua liền đứng dậy để bước lên bàncân, thì đau quá, khí lực đã hết nên Ngài ngã lăn đùng xuống đất, mê mệt khôngbiết gì, giờ lâu tỉnh lại, thầm nghĩ rằng:
- Ta từ bao kiếp đến nay, cũng chỉvì có thân này, mà làm cho ta khốn khổ, nổi chìm trong ba cõi, trôi dạt trongsáu thú, cũng do tham thân sống, tiếc thân sống, nuôi nó bảo thủ nó, gìn giữnó, yêu quí nó, vì nó mà làm hại biết bao sinh mạng khác, nhưng trái lại rồimột ngày gần đây nó lại tan không, hòa đồng với đất, nước, cây cỏ, chưa bao giờvất nó đi, để hy sinh mà cứu chúng sinh, vậy ta phải tiến lên để đập tan nhữngbức thành ngã chấp từ bao kiếp tới nay, để đạt tới pháp thân bất diệt.
Nghĩ xong liền ngồi dậy cố gắng đứnglên bàn cân nhìn vẻ mặt vẫn vui tươi!
Bấy giờ trời đất tự nhiên chuyểnđộng sáu lần, thiên cung nghiêng ngả, có rất nhiều người ở các cõi trời bayxuống xem, họ nhận thấy một ông vua, quên mình để cứu một con vật, tất cả nhângian thiên thượng, chưa từng ai làm nổi, họ đều cảm động rơi lệ chứa chan, vàtung các thứ hoa xuống cúng dàng.
Đối với lòng đại bi cứu sinh mộtcách dũng mãnh như vậy, vua Đế Thích cũng phải cảm phục và hiện lại nguyên hìnhrồi nói rằng:
- Kính thưa Ngài! Tôi thấy Ngài làmhạnh Bồ tát, nên tôi tới đây để thử Ngài đấy thôi, chính tôi đây là Đế ThíchVương là chúa cõi trời Đao Lợi. Nhưng xin hỏi Ngài: Ngài làm những việc màngười đời không làm nổi như vậy, để cầu làm gì ? Làm Đế Thích hay làm ChuyểnLuân Thánh Vương?
Nhà vua đáp: - Thưa Ngài tôi nguyệnđem lòng từ bi cứu hộ chúng sinh để cầu thành Phật, chứ không có ý cầu làm ĐếThích hay Chuyển Luân Thánh Vương mong hưởng những thú vui trong ba cõi.
Vua Đế Thích nói: - Nhà vua cắt thịtđau đớn như vậy, thì tâm có phàn nàn gì không?
Đáp: - Thưa không!
Vua Đế Thích nói: - Nhà vua nóikhông, việc đó thì ai biết? Tôi coi thân thể nhà vua run rẩy như vậy, khí sắcđã gần tuyệt, tự nói không thì lấy gì làm bằng?
Đáp: - Trước mặt Ngài tôi xin có mộtcụ thể để chứng tỏ lòng thành của tôi, nói xong Ngài lập thệ rằng:
- Kính lạy thập phương Đại Giác tamthế Hùng Sư ! Nếu con chí thành cầu đạo! Xin cho con lại được bình phục như cũ.
Thệ dứt lời, nhà vua lại được lànhmạnh như cũ, những vết thương tiêu tan, da dẻ lại tươi sáng hơn xưa.
Bấy giờ tất cả trời người phàm thánhai nấy đều tắc lưỡi bái phục tâm chí thành của nhà vua, và coi như một việcchưa từng có, thảy đều kinh sợ vui mừng!
- Kính lạy Ngài! Vua Thi Tỳ thuở đóchính là Ngài đấy, Ngài đã vì chúng sinh chịu cực khổ như vậy! Giờ phút nàychúng sinh đương bị chìm đắm trong bể sinh tử luân hồi; phơi thây trong rừng tàkiến, dục vọng! Ngóc đầu lên không ai vớt, gào kêu không kẻ chỉ đường. Kính xinNgài từ bi cứu tế thuyết pháp độ sinh, khiến cho khắp nhân thiên, phàm thánhđược mong ân đức hóa.
Vua Phạm Vương đứng trước đức Phậttán dương công đức, và tha thiết cầu thỉnh Ngài thuyết pháp độ sinh một cáchthành thực, nên đức Phật hứa lời ông thỉnh.
Đầu tiên Ngài đến nước Ba La Nạithuyết pháp ở vườn Lộc Uyển độ cho nhóm ông Kiều Trần Như năm người. Ngôi TamBảo từ đấy mới xuất hiện ở thế gian.